Chi phí đầu vào tăng cao cùng sức mua trên thị trường suy yếu khiến tồn kho Xi măng “phình to”, nhiều nhà máy đứng trước nguy cơ dừng chạy lò.

Hàng tồn kho đang là nỗi lo lớn của không ít doanh nghiệp hiện nay và là thách thức lớn đối với tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm 2022.

Hàng tồn kho nhiều, doanh nghiệp không quay được vòng vốn khiến sản xuất ngưng trệ. Mặc khác, việc không tiêu thụ được sản phẩm khiến tình hình kinh doanh của nhiều doanh nghiệp càng thêm khó khăn.

Hiện nay, giá bán tăng cao, tiêu thụ thấp khiến hàng tồn kho xi măng của các nhà máy sản xuất đang trong tình trạng báo động. Chỉ có tháo gỡ “nút thắt” hàng tồn kho thì mới có thể khôi phục sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xi măng.

Lớn dần nỗi lo hàng tồn kho

image 20220809081341 1

Tồn kho xi măng từ đầu năm đến nay khoảng 5,9 triệu tấn, tương đương từ 25 đến 30 ngày sản xuất

Tính đến thời điểm này, ngành xi măng có 90 dây chuyền với tổng công suất 110 triệu tấn/năm, nhưng có thể sản xuất tăng thêm hàng chục triệu tấn nhờ điều chỉnh tỷ lệ phụ gia. Nguồn cung xi măng tiếp tục duy trì ở mức cao khi có thêm 3 dây chuyền sản xuất lớn đặt tại Hà Nam và Thanh Hóa đi vào hoạt động trong năm nay với công suất khoảng 8,8 triệu tấn.

Trên thực tế, cung – cầu xi măng nhiều năm nay luôn trong trạng thái mất cân bằng. Cụ thể, tình trạng dư cung đối với mặt hàng này luôn ở ngưỡng vài chục triệu tấn, khiến các nhà sản xuất càng chật vật trong khâu bán hàng.

Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) cho biết nguồn cung xi măng trong năm 2022 tiếp tục duy trì ở mức khoảng 108 triệu tấn, trong khi tiêu thụ nội địa ước tính chỉ đạt 65 triệu tấn, xuất khẩu tiếp tục là kênh tiêu thụ quan trọng của các doanh nghiệp xi măng.

Có nhiều nguyên nhân được chỉ ra cho tình trạng tồn kho của xi măng. Sở dĩ tiêu thụ xi măng nội địa trở thành thứ yếu vì tốc độ giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm chỉ ở mức thấp, ước đạt 28% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ.

Đầu tư ít, giải ngân vốn ít đã tác động không nhỏ tới các ngành sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) nói chung và ngành xi măng nói riêng.

Một nguyên nhân nữa, theo nhiều nhà phân phối, giá xi măng cùng các mặt hàng VLXD tăng cao khiến kế hoạch xây sửa nhà của không ít người bị thay đổi, do thu nhập của họ cũng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh suốt 2 năm qua, thậm chí có những dự án đang xây cũng tạm dừng.

Ngành xi măng và cuộc chiến giải phóng hàng tồn kho

Xuất khẩu suy yếu, bán hàng trong nước chậm chạp do giá xi măng tăng cao

Thị trường nội địa ảm đạm, gánh nặng tiêu thụ đè lên xuất khẩu nhưng kênh bán hàng này trong năm nay cũng không khởi sắc do các thị trường trọng điểm giảm nhập khẩu. Cụ thể, 2 thị trường xuất khẩu xi măng và clinker chính Việt Nam là Trung Quốc và Philippines đều có mức sụt giảm nhập khẩu đáng kể trong nửa đầu năm 2022.

Với Trung Quốc, xuất khẩu xi măng giảm do nước này vẫn duy trì chính sách “Zero Covid” khiến là thị trường bất động sản của nước này tiếp tục suy yếu. Còn ở Philippines, xuất khẩu bị tác động bởi tình trạng vận tải biển khó khăn và giá cước cao.

Theo số liệu của Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), tiêu thụ xi măng ở thị trường trong nước, đặc biệt là xuất khẩu, giảm mạnh do áp lực cạnh tranh gay gắt về giá và giá nhiên liệu than tăng quá cao.

Trong tháng 7.2022, tiêu thụ xi măng chỉ đạt khoảng 5,95 triệu tấn, giảm khoảng 27% so với cùng kỳ. Trong đó, tiêu thụ trong nước khoảng 4,85 triệu tấn, xuất khẩu ước đạt khoảng 1,1 triệu tấn.

Tính chung 7 tháng năm, bán hàng xi măng của cả nước đạt khoảng 55 triệu tấn, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, tiêu thụ trong nước khoảng 36,8 triệu tấn, giảm 3% so với cùng kỳ.

Đáng chú ý, xuất khẩu xi măng trong giai đoạn này chỉ ước đạt 18,15 triệu tấn, giảm tới 30% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ngành xi măng và cuộc chiến giải phóng hàng tồn kho

Tiêu thụ xi măng của cả nước đạt khoảng 55 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2022

Theo số liệu của Vụ Vật liệu xây dựng, hiện tồn kho xi măng của toàn ngành từ đầu năm đến nay khoảng 5,9 triệu tấn, tương đương từ 25 đến 30 ngày sản xuất, chủ yếu là clinker.

Theo đánh giá của Vụ Vật liệu xây dựng, thời điểm cuối tháng 6.2022, giá bán xi măng trong nước tăng từ 60.000-80.000 đồng/tấn tùy chủng loại, thương hiệu, do giá than tăng rất lớn. Kênh xuất khẩu giảm mạnh do bị ảnh hưởng bởi công tác vận tải đường thủy trên biển và thị trường Trung Quốc hạn chế mở cửa.

Để đối phó với chi phí đầu vào tăng cao, các doanh nghiệp sản xuất xi măng đã tăng giá 3 lần từ đầu năm với tổng mức tăng từ 220.000-270.000 đồng/tấn nhưng vẫn không ăn thua.

Xuất khẩu suy yếu, bán hàng trong nước chậm do giá xi măng tăng cao dẫn đến tình trạng dư cung trầm trọng, đặc biệt tại khu vực miền Bắc. Có thể sắp tới một số nhà máy xi măng phải làm việc lại với nhà phân phối để giảm giá nhiều hơn nhằm giải phóng hàng tồn.

Đối diện thua lỗ và dừng sản xuất là tình trạng của một bộ phận nhà máy xi măng lúc này, nhất là với những dây chuyền cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu. Đây là bài toán không hề đơn giản.

Xi măng tiếp tục tăng công suất

Thực tế cho thấy quy hoạch phát triển của ngành xi măng và nhu cầu tiêu thụ xi măng ở trong nước đang có một khoảng cách lớn. Cùng với các dự án đang đầu tư mới sắp đi vào vận hành, quy mô ngành xi măng sẽ được bổ sung công suất từ dự án nhà máy xi măng cũ.

Mới đây, Bộ Xây dựng đã có công văn 2711/BXD-VLXD gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng cho ý kiến về đề xuất điều chỉnh dự án nhà máy Xi măng Chinfon.

Theo đó, dự án này được đề xuất điều chỉnh quy mô sản xuất xi măng với công suất 3,7 triệu tấn/năm, lên 4,2 triệu tấn/năm, tăng thêm 500.000 tấn/năm so với công suất hiện tại. Không như nhiều dự án trước đây xin điều chỉnh nâng công suất bằng việc đầu tư thêm dây chuyền mới, trường hợp của Xi măng Chinfon lại khác.

Trong báo cáo giải trình, lý do điều chỉnh thay đổi công suất do áp dụng quy định mới về tỷ lệ phối trộn phụ gia, theo đó tăng tỷ lệ sử dụng phụ gia là chất thải công nghiệp làm nguyên liệu thay thế clinker.

Căn cứ vào Chiến lược Phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 quy định: tỷ lệ sử dụng clinker trong sản xuất xi măng trung bình toàn ngành tối đa ở mức 65%, phụ gia cho xi măng sử dụng tối thiểu 35%.

Cạnh tranh tiêu thụ xi măng vẫn gay gắt

Việc một số nhà máy xi măng mới tiếp tục đi vào hoạt động càng làm cho thị trường cạnh tranh gay gắt, tồn kho có chiều hướng tăng lên, bởi cung tăng nhiều mà cầu vẫn ì ạch.

Ngành xi măng và cuộc chiến giải phóng hàng tồn kho

Cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xi măng vẫn tiếp diễn trong thời gian tới

Cùng với đó, hiện Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của xi măng Việt Nam, nhưng thị trường này đang hạn chế mở cửa làm các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm xi măng rất khó khăn vì hầu như không xuất khẩu được vào thị trường này.

Mặc khác, tình hình xuất khẩu trong năm tới dự báo cũng không mấy khả quan. Theo Nghị định 101/2021/NĐ-CP, thuế xuất khẩu clinker dự kiến tăng từ 5% lên 10% từ ngày 1/1/2023 nhằm hạn chế xuất khẩu khoáng sản. Xuất khẩu clinker giảm sẽ càng làm tăng áp lực cạnh tranh lên thị trường trong nước.

Hiện nay, giá nhiên liệu than tăng hơn gấp đôi so với trước kia, trong khi chi phí than trong sản xuất clinker chiếm tới 56% làm đội giá thành sản xuất cũng như tăng giá bán xi măng. Tình hình này buộc nhiều doanh nghiệp sản xuất phải điều chỉnh giảm sản lượng sản xuất vì càng sản xuất càng lỗ.

Giá nguyên, nhiên liệu sản xuất xi măng tiếp tục duy trì ở mức cao đã khiến biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp trong ngành suy giảm đáng kể.

Mới đây, Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) đã công bố kết quả sản xuất kinh doanh trong 6 tháng đầu năm với tổng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ đạt 14,12 triệu tấn, đạt 47% kế hoạch năm. Trong đó, sản lượng tiêu thụ xi măng nội địa của Vicem đạt 12,8 triệu tấn, xuất khẩu đạt 1,7 triệu tấn, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm 2021.

Lãnh đạo Vicem cho biết, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn do chi phí sản xuất tăng cao, nặng gánh nhất là giá than cùng với đó là thị trường xuất khẩu clinker và xi măng cũng không mấy khả quan.

Trước áp lực tăng chi phí đầu vào, các doanh nghiệp xi măng thuộc Vicem đã phải 3 lần điều chỉnh tăng giá bán, với biên độ tăng cả 3 lần lên đến 270.000 đồng/tấn để ổn định hoạt động sản xuất. Ngoài ra, sản lượng tiêu thụ qua kênh xuất khẩu của Vicem nửa đầu năm nay đã giảm gần 20% so với cùng kỳ. Lợi nhuận của Vicem giảm gần 14%, còn hơn 1.100 tỉ đồng.

Tương tự, một doanh nghiệp thuộc Vicem là Xi măng Hà Tiên cũng ghi nhận kết quả kinh doanh kém khả quan. Doanh thu 6 tháng đầu năm đạt 4.342 tỉ đồng, tăng 8,5%, song lợi nhuận sau thuế lại giảm một nửa so với cùng kỳ, xuống mức 160 tỉ đồng.

Việc thiếu hụt nguồn cung than và đá vôi khiến các nhà sản xuất xi măng trong đó có Xi măng Hà Tiên phải mua nguyên vật liệu ở mức giá cao từ các nhà nhập khẩu, làm đội chi phí sản xuất, qua đó khiến biên lợi nhuận giảm mạnh.

Với đà tăng nóng của giá than thời gian qua, Xi măng Hà Tiên đã quyết định tăng giá bán 3 lần từ đầu năm với mức tăng từ từ 230.000 đồng/tấn để bù đắp áp lực chi phí tăng.

Tiêu thụ khó khăn khiến ngành xi măng đối diện với tình trạng dư cung và cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong thời gian tới.

Dự báo 6 tháng cuối năm 2022, lượng tiêu thụ xi măng nội địa sẽ tăng trưởng trở lại do triển khai thi công nhiều công trình cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, áp lực nguyên, nhiên liệu đầu vào vẫn sẽ ảnh hưởng đến giá thành và lợi nhuận của doanh nghiệp xi măng.

Xem thêm tại

Krish Nguyen

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *