Đại biểu Quốc hội cho rằng, mỗi mũi khoan thăm dò dầu khí tốn vài triệu USD, nếu không có cơ chế đặc thù, loại trừ trách nhiệm khó ai dám làm.

Ngày 3/6, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên thừa uỷ quyền Chính phủ trình Quốc hội dự Luật Dầu khí sửa đổi.

Thảo luận ở tổ sau đó, ông Nguyễn Lâm Thành, Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc đề cập đến hoạt động điều tra, thăm dò dầu khí. “Hoạt động thăm dò tính rủi ro rất lớn”, ông nói.

Điều 56 dự thảo luật sửa đổi quy định, chi phí tìm kiếm thăm dò dầu khí không thành công của PVN sẽ được bù đắp từ nguồn lợi nhuận sau thuế hằng năm của tập đoàn này và phân bổ trong 5 năm từ thời điểm kết thúc dự án, quyết toán chi phí.

Theo ông Thành, mỗi mũi khoan thăm dò tốn vài triệu USD, nhưng trong thăm dò, khoan nhiều mũi và hỏng là chuyện bình thường. Cho nên, Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho rằng, phải có những quy định rất đặc thù để đảm bảo cơ chế hoạch toán, quản lý đầu tư xây dựng hoạt động thăm dò dầu khí. “Nếu cứ tính theo cơ chế thông thường rất bất cập và khó hạch toán”, ông nhận xét.

ôÔng Nguyễn Lâm Thành, Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc. Ảnh: Trung tâm báo chí Quốc hội

ôÔng Nguyễn Lâm Thành, Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc. Ảnh: Trung tâm báo chí Quốc hội

Đồng tình, ông Hoàng Anh Công, đại biểu tỉnh Thái Nguyên, nhận xét đây là chuyện dám nghĩ, dám làm, dự luật sửa đổi cần bổ sung quy định ràng buộc để tránh tình trạng lợi dụng gây thất thoát tài sản của doanh nghiệp, nhà nước.

“Nếu không có quy định rõ ràng về loại trừ trách nhiệm với những trường hợp rủi ro như trên, sẽ rất khó để người có trách nhiệm quyết định là tiếp tục tìm kiếm thăm dò những mỏ dầu ở vùng khơi xa”, ông Công phát biểu.

Giải trình tại tổ, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho hay, phạm vi điều chỉnh của dự án luật là hoạt động thượng nguồn, chứ không phải hạ nguồn và trung nguồn, do tính chất đặc thù của thăm dò và khai thác.

“Quá trình điều tra cơ bản, tìm kiếm thăm dò và khai thác cũng giống như “tìm kim đáy bể”, bỏ tiền và công sức để tìm kiếm thăm dò ngoài biển, chưa ai biết có hay không. Nhưng nếu không có những quy định đặc thù của hoạt động này thì không ai dám bỏ tiền của ra để làm”, ông Diên nêu.

Dẫn chứng trước đây PVN có hoạt động đầu tư ở nước ngoài, bỏ chi phí một khoản rất lớn nhưng cuối cùng không dễ gì lấy được các dữ liệu… Tức là quy định về tính đặc thù của hoạt động thượng nguồn trong Luật dầu khí hiện hành đã có nhưng không đủ rõ, không bảo đảm hệ số an toàn.

Sửa luật để tăng hút vốn, xoá ‘tiềm thức ngành dầu khí chỉ gia công’

Điểm mới là dự thảo đưa ra các mức ưu đãi đầu tư đặc biệt, chưa có trong luật hiện hành, để thu hút đầu tư. Cụ thể, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% (thấp hơn 7% so với hiện tại); thuế suất thuế xuất khẩu dầu thô 5% và tỷ lệ thu hồi chi phí tối đa 80% sản lượng dầu khí khai thác được trong năm (cao hơn 10% ưu đãi hiện tại).

Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho hay, các ưu đãi này được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo chính sách một số nước trong khu vực có hoạt động dầu khí tương đồng với Việt Nam. Ví dụ, mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Thái Lan là 20%, Malaysia 25%, Trung Quốc 25%, Myanmar 30%. Còn mức thu hồi chi phí tối đa của Malaysia là 75%, Indonesia 90%.

“Ưu đãi này sẽ mở ra cơ hội tăng thu cho ngân sách nhà nước khi mở rộng đối tượng ký mới hợp đồng và khai thác”, Bộ trưởng Công Thương nhận định.

Bà Nguyễn Thị Yến, Phó bí thư thường trực tỉnh uỷ, Trưởng đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu góp ý tăng thêm cơ chế ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp nặng sản xuất vật liệu, công nghệ cao… phục vụ ngành dầu khí.

Việc này để chủ động, tránh phải nhập khẩu, phụ thuộc vào bên ngoài và gỡ bỏ tiềm thức “chỉ làm gia công, thi công, chế tạo đơn thuần” của ngành dầu khí.

Bà Nguyễn Thị Yến, Phó bí thư thường trực tỉnh uỷ, Trưởng đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu. Ảnh: Trung tâm báo chí Quốc hội

Bà Nguyễn Thị Yến, Phó bí thư thường trực tỉnh uỷ, Trưởng đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu. Ảnh: Trung tâm báo chí Quốc hội

Bà phân tích, năng lực của các nhà thầu Việt trong lĩnh vực dầu khí còn hạn chế do thiếu thiết bị, phương tiện cho các công tác ngoài biển như vận chuyển, lắp đặt, rải ống cần các tàu cẩu, tàu rải ống chuyên dụng. Họ cũng phải nhập khẩu phần lớn vật tư, nguyên liệu, thiết bị từ nước ngoài với giá thành cao, tốn thời gian.

Tương tự, các dự án công nghiệp trên bờ khi đấu thầu đều do các nhà thầu nước ngoài đảm nhiệm, chiếm khoảng 80% giá trị, công nghệ. Nhà thầu Việt tham gia được chỉ đơn thuần vào các phần việc xây lắp giá trị thấp, thâm dụng lao động, hàm lượng chất xám ít.

Thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cũng nhìn nhận, ngoài ưu đãi về thuế, Chính phủ nên nghiên cứu thêm các hình thức, cơ chế ưu đãi đầu tư khác và mức thu hồi chi phí để có tính cạnh tranh quốc tế cao hơn.

Thực tế, Việt Nam đang đứng trước một thực tế là số lượng hợp đồng dầu khí mới được ký kết gần đây giảm mạnh. Giai đoạn 2009-2014 khoảng 35 hợp đồng được ký, nhưng từ 2015-2019 mỗi năm chỉ có 1 hợp đồng và hai năm gần đây không có hợp đồng nào được ký.

Nguyên nhân khách quan là các phát hiện mới ở Việt Nam trong thời gian qua phần lớn có trữ lượng nhỏ, chủ yếu là khí. Các mỏ đang khai thác ở trong giai đoạn cuối đời mỏ, sản lượng giảm dần. Một số mỏ doanh thu không bù đắp được chi phí và các nghĩa vụ tài chính với nhà nước… Bởi vậy, bổ sung chính sách ưu đãi đầu tư sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hoạt động dầu khí của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đồng tình cần có chính sách hỗ trợ các loại thuế suất cho dầu thô, thuế thu nhập doanh nghiệp để thu hút đầu tư, nhưng ông băn khoăn về “mức thu hồi chi phí tối đa 80% sản lượng dầu khí khai thác được trong năm”.

Đây là chính sách áp dụng với các mỏ đã đưa vào khai thác, nhưng sau đó không hiệu quả và nhà đầu tư rút đi. Muốn tận thu thêm từ các mỏ này, ông Bảo nói, cần chính sách ưu đãi tốt hơn thông thường để mỏ dầu không bị bỏ phí.

Xem thêm tại

Krish Nguyen

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *